Cổng Thông Tin Đại Học, Cao Đẳng Lớn Nhất Việt Nam

Phân tích bài thơ Tự tình

KHOA Y DƯỢC HÀ NỘI

Thẳng tiến vào đại học chỉ với: Điểm lớp 12 Từ 6,5 Điểm thi từ 18 năm 2022

Phân tích bài thơ Tự tình của hồ Xuân Hương

Dưới đây là phân tách của bài thơ tự tình của đại dương Xuân Hương

Bài làm

“Quả cau nho nhỏ dại miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương đã quệt rồi”

Hồ Xuân Hương – bà chúa thơ Nôm, một hiện tượng khác biệt của thơ ca trung đại Việt Nam. Nữ nhà thơ có duyên số éo letrớ trêu nên hồn thơ của bà là tiếng nói đại diện cho những người phụ nữ sống trong xã hội phong kiến với một khát vọng tình ái, hạnh phúc lứa đôi. Chùm thơ tự tình của bà gồm ba bài là sự phản chiếu đặc sắc tâm tư, tình cảm của nhà thơ_ một người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” đường tơ duyên không toàn vẹn, quá lứa lỡ thời. Trong đó tình tự bài II được coi là bài thơ hay nhất, giàu cảm xúc và lắng đọng nhất.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

…Mảnh tình san sớt tí con con!”

Bài thơ được viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng cái đặc sắc không phải viết bằng chữ Hán  được viết bằng tiếng nói dân tộc chữ Nôm. Phải tới thời gian biển Xuân Hương, Nguyễn Du thì phong trào làm thơ Nôm mới đạt đến đỉnh cao thực thụhồ Xuân Hương là người thiếu nữ đa tài, đa tình nhưng mà số mệnh truân chuyên. Bà là con hậu phi lẽ, lại đã từng muộn mằn đường tơ duyên, từng mang thân đi làm bé và sống trong cảnh góa bụa. Chính tình cảnh ấy là cảm hứng cho bà sáng tác chùm thơ tự tình. Bài thơ tình tự II là hình ảnh người phụ nữ cô đơ, lẻ loi trong đêm khuya tĩnh mịch than ngẫm, đau xót cho thân phận của mình.

phân tích bài thơ theo bố cục đề thực luận kết của thể thơ Đường luật. Với nhì câu thơ đầu là không gian, thời kì cùng với tâm trạng tê tái của người phụ nữ.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Phân tích bài thơ Tự tình
Phân tích bài thơ Tự tình

thời kì ở đây là lúc đêm khuya khi nhưng nhân loại chìm sâu vào trong giấc ngủ để nghỉ ngơi sau một ngày công sức mỏi mệt, thì nhân vật trữ tình ở đây lại thao thức, trằn trọc không ngủ được. Không gian là khoảng không mênh môngmênh mang yên ổn tĩnh, vắng lặng nghe thấy “văng vẳng trống canh dồn” báo hiệu thời kì trôi qua rất nhanh. Nghệ thuật lấy động tả tĩnh lấy cái âm thanh “văng vẳng” của tiếng trống canh để nói cái không gian lặng yên về đêm. Lấy cái ngoại cảnh để nói tâm cảnh. Là cảnh vật tác động đến nhân loại hay là bởi vì “người ảm đạm cảnh có vui đâu bao giờ”. Đêm khuya thanh vắng là lúc loài người ta trở thành bé nhỏ và lạc lõng cực kì khi giường đơn gối chiếc đối diện với chính mình nhưng mà cảm thấy “trơ”. “Trơ”ở đây là đơn côi, là cô độc chỉ có một mình, được đặt ở đầu câu càng nhấn mạnh nỗi đau, sự xấu số của một người phụ nữ có “hồng nhan”. Ấy là chỉ cái vẻ đẹp sắc đẹp bên ngoài của người con gái “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” nhưng cũng là để nói đến cái phẩm hạnh “Tấm lòng son” bên trong. Chữ “cái” nhằm chi tiết hóa đối tượng miêu tả “cái hồng nhan” cho thấy sự tủi nhục, bẽ bàng khi sắc đẹpđức hạnh của người đàn bà bị coi rẻ, bị mỉa mai. “Nước non” chỉ cả trái đất thiên nhiên và xã hội bên ngoài. “Trơ” phải chăng cũng là sự thử thách “nước non” của một loài người có cá tính mạnh mẽtáo bạo. Nó có cùng hàm nghĩa với chữ trơ trong câu thơ sau của Bà Huyện Thanh Quan: “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”.  lắm cực khổ nhưng nét mặt loài người như trơ ra trước cảnh vật, trước mọi người như hóa đá không còn cảm giác. Người đọc tưởng như nghe được cả tiếng thở dài, ngao ngán của người thanh nữ trước duyên phận bẽ bàng.

nhì câu thực là tuyển lựa của tác giả khi sầu tìm đến rượu, bà muốn mượn chút hương nồng để quên đi nỗi bi thương nhưng mà càng uống lại càng thức giấc lại càng đau, nỗi ảm đạm không nguôi trong vòng xoáy lẩn quất.

“Chén rượu hương đưa say lại thức giấc

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

ngẩng đầu lên ngắm trăng nhưng trăng đã xế khi chưa lúc nào tròn. Vầng trăng ở đây vừa là hình ảnh thiên nhiên vừa là hình ảnh tượng trưng cho tuổi xuân của thi sĩ sắp qua đi nhưng tình yêu vẫn chưa bao giờ được toàn diện, được ắp đầy. Nghệ thuật đối trong nhì câu thơ thật tài giỏi, đăng đối, hô ứng nhau cùng nhau làm nổi bật lên thân phận của một khách hồng nhan bạc mệnh tài tình  phải chịu cảnh dang dở. nguyên nhân ấy là bởi vì đâu? Phải chăng như Nguyễn Du đã từng nói về “Tài mệnh tương đố”,  “Trời xanh quen thân má hồng đánh ghen”.

giả dụ tứ câu thơ đầu là hoàn cảnh và tâm cảnh lẻ loi, lẻ bóng của tác giả thì tứ câu thơ sau là ý thức kháng cự khỏe mạnh, là tâm thế muốn bứt phá, muốn đổi mới số mệnh của mình  càng cố gắng, càng hy vọng, càng mong muốn bao nhiêu thì lại càng thuyệt vọng, xót xa bấy nhiêu khi “Mảnh tình san sớt tí con con”. Đó chính là bi kịch của người thiếu phụ có duyên phận hẩm hiu.

hai câu luận là nhì câu thơ tả cảnh ngụ tình, mượn ngoại cảnh để nói cái “chí”, cái “tình”bên trong của mình.

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân trời đá mấy hòn”

Rêu và đá là nhì sự vật bé xíu  không hề yếu mềm  mang một sinh khí mãnh liệt có thể “xiên ngang mặt đất” và “đâm toạc chân mây”, liên hiệp với nghệ thuật đảo ngữ, sử dụng các động từ mạnh “xiên”, “đâm” cộng với xẻ ngữ “ngang”, “toạc” vừa nhấn mạnh trạng thái của thiên nhiên nhưng cũng là để nhấn mạnh tâm cảnh của nhân loại phẫn uấtchống cự không chịu ưng ý số phận. Bà căm ghét cái kiếp làm bé nhưng thốt lên rằng: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”

Phản ứng của bà tuy mạnh khỏe, dữ dội  thực tế vẫn đắng cay, chua chát. biển Xuân Hương sống vào khoảng thời kì cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Đây là thời kì  cơ chế phong kiến Việt Nam rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, mâu thuẫn xã hội ngày một trở thành thâm thúy. Sống trong một xã hội “trọng nam khinh nữ” với cách thức đa thê thi sĩ muốn cất thông báo nói nhằm tranh đấu cho phụ nữ, đòi quyền bình đẳng, muốn được sống, được mến thương và có được cuộc đời hạnh phúc. nhưng việc ấy không hề dễ dãi  chính bạn dạng thân bà vẫn đang phải chịu số mệnh ngang tráingang trái.

căn số của nhà thơ cũng chính là số mệnh của biết bao những người đàn bà trong xã hội xưa. Chính điều đó đã khiến cho Nguyễn Du phải khóc than cho thân phận của nàng Tiểu Thanh, nàng Kiều và những người thiếu nữ như biển Xuân Hương:

“Đau đớn thay thân phận thanh nữ

Lời rằng bạc phận cũng là lời chung”

hai liên hiệp nói về tận cùng của sự đau buồnngao ngánbi ai tủi tác giả thương cho thân cho phận của chính mình:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tình chia sẻ tí con con!”

“Ngán” ở đây là tâm cảnh, cảm xúc chán ngán, chán nản cuộc đời éo le. Xuân chỉ mùa xuân của đất trời, mùa của muôn hoa đua nở khoe nhan sắc khoe hương, mùa của sum vầy nhưng còn có ngụ ý chỉ tuổi xanh, tuổi xuân thì của người đàn bà. Từ “Lại” cho thấy sự tuần hoàn lặp đi lặp lại. Mùa xuân của tự nhiên, đất trời qua đi rồi quay về, nó tới mang đi mùa xuân của nhân loại mùa xuân ấy thì chỉ một đi để rồi “Ngày xanh mòn mỏimá hồng phôi pha” (Truyện Kiều).

Đáng lẽ mùa xuân tươi đẹp căng tràn nhựa sống trở về nhân loại phải cảm thấy hớn hở, vui tươi thì nhà thơ lại càng cảm thấy thêm ê chề, ngán ngẩm do lẽ xuân tới là một lần tuổi đời lại thêm, tuổi xanh dần qua đi  phiên bản thân mình vẫn đơn độc, thiếu thốn nâng niu khi “Mảnh tình san sẻ tí con con!” mảnh tình đã nhỏ bé lại còn chia sẻ “Tí con con” tạo nên cảm xác xót thương, đau đớnngùi ngùi và ấm ức. Nghệ thuật tăng tiến nhấn mạnh vào những điều bé xíu càng làm cho nghịch cảnh càng trở nên trớ trêu hơn.

tự tình II là bài thơ tự than thân, tự bộc lộ, tự nói lên nỗi lòng của một người thiếu phụ lận đường tơ duyên nhưng mà luôn khát khao có được một tình ái toàn diện xứng đáng với tấm tình thật của mình. đặc sắc nghệ thuật của bài thơ cho thấy kỹ năng thi ca của tâm hồn thi sĩ với việc dùng nghệ thuật lấy động tả tĩnh, thủ pháp tả cảnh ngụ tình, sử dụng động từ mạnh cấu kết nghệ thuật đảo ngữ và các từ láy “văng vẳng”, “con con” với nghệ thuật tăng tiến càng làm cho bài thơ trở nên sâu sắc, thẫm đượm cái ý cái tình của người thanh nữ có nhiều nét độc đáomới lạ trong nền thơ ca văn học dân tộc.

Những hình ảnh giản dị với tâm cảnh vừa bi ai tủi, xót xa lại vừa uất ức cho thân kiếp làm bé của người đàn bà song song cũng là thảm kịch và khát vọng hạnh phúc cá nhân của đại dương Xuân Hương. Bài thơ truyền vận chuyển ý nghĩa nhân văn thâm thúy tới độc giả dù sống trong tình cảnh hà khắc nhưng nhân loại vẫn cố gắng vươn lên muốn thay đổi số mệnhthay đổi nghịch cảnh mong muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn với hạnh phúc đôi lứa và tình duyên toàn diện.

0 0 votes
Article Rating
Theo dõi
Thông báo của
guest
0 Comments
Inline Feedbacks
View all comments

Khoa Y Dược Hà Nội tuyển sinh chính quy

Bài viết mới nhất

Thi trắc nghiệm online
https://tintuctuyensinh.vn/wp-content/uploads/2021/10/Autumn-Sale-Facebook-Event-Cover-Template-1.gif
0
Would love your thoughts, please comment.x