Soạn Ngữ Văn 8 đầy đủ nhất
23 Tháng Mười Hai, 2021Cái gì cũng phải xuất phát từ những điều nhỏ và đối với môn Văn thì việc đọc bài...
Đề bài: Hình tượng người lính Tây Tiến và Việt Bắc
Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt chừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm
Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh
Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
(Tây Tiến, SGK Ngữ văn 12, tập 1)
Cảm nhận của anh/chị về hình tượng người lính Tây Tiến trong đoạn thơ ở trên. Từ đó liên hệ với bài thơ Việt Bắc – Tố Hữu (SGK Ngữ văn 12, tập 1) để nhận xét về vẻ đẹp của hìnnh tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp.
Contents
Hình tượng người lính Tây Tiến và Việt Bắc dàn ý chi tiết! Quang Dũng là gương mặt tiêu biểu trong nền thơ ca kháng chiến chống Pháp, với hồn thơ hào hoa đầy lãng mạn thấm đượm tình đồng bào đồng chí. Tây Tiến được coi là bài thơ hay nhất, tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng. Bài thơ được tác giả viết ra vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh khi ông đã rời xa đơn vị Tây Tiến một thời gian.
Tố Hữu là nhà thơ lớn của dân tộc cũng như đất nước , thơ của ông đã song hành cùng những chặng đường của kháng chiến cách mạng Việt Nam. Bài thơ Việt Bắc là một thành công đặc biệt trong cuộc đời làm thơ Tố Hữu. Tác phẩm vừa là bản tình ca ngọt ngào về tình cảm cách mạng – giữa đoàn cán bộ miền xuôi với nhân dân con người Việt Bắc, vừa là bản hùng ca về cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gian khổ hi sinh mà vô cùng vẻ vang của dân tộc.
Hai đoạn trích được trích từ hai bài thơ đều tái hiện được rõ vẻ đẹp của những đoàn quân ra trận, song mỗi nhà thơ lại có những cách khám phá cũng như phong cách thể hiện riêng.
Vẻ đẹp bi tráng của đoàn quân Tây Tiến trên đường hành quân.
Cái bi thương của người lính được gợi lên chính từ ngoại hình ốm yếu gầy gò , tiều tụy, đầu thì trọc, da dẻ ai cũng xanh như màu lá. Sở dĩ người lính Tây Tiến đầu trọc da xanh là do hậu quả của những tháng ngày hành quân vất vả bất chấp nắng mưa vì đói và khát, là dấu ấn của những trận sốt rét ác tính oanh tạc khi đóng quân ở trong rừng .
Hình ảnh đoàn binh không mọc tóc không phải là sản phẩm của trí tưởng tượng mà nét vẽ này xuất phát chính từ một hiện thực trong cuộc sống vô vàn khó khăn của người lính Tây Tiến: họ phải cạo trọc đầu để giảm bớt những bất tiện trong sinh hoạt khi ở trong rừng và để tạo thuận lợi khi đánh trận; có khi những cái đầu không mọc tóc kia là hậu quả biết bao trận sốt rét liên miên nơi rừng thiêng nước độc.
Và dù hiểu theo cách nào đi chăng nữa thì đó cũng là hình ảnh gợi lên biết bao sự gian khổ thiếu thốn, khắc nghiệt mà chiến tranh gây ra . Tuy nhiên với cách diễn đạt độc đáo của nhà thơ Quang Dũng, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên không tiều tụy, nhếch nhác mà còn kiêu dũng và ngang tàng. Nói về nhưng người lính , Quang Dũng vẫn dùng từ đoàn binh – gợi cảm giác về một đội ngũ đông đảo mạnh mẽ , vô cùng hừng hực khí thế.
Hình ảnh quân xanh màu lá ở đây có thể hiểu là màu xanh của áo lính hay màu xanh của lá ngụy trang khiến cho cả đoàn quân đều mang trên mình màu xanh màu lá. Nhưng theo mạch thơ có lẽ còn nên hiểu đây là câu thơ đang miêu tả những gương mặt xanh xao, gầy yếu vì những côn sốt rét rừng, vì cuộc sống hết sức kham khổ. Ở đây cho thấy cách diễn đạt của của Quang Dũng khá tinh tế khi miêu tả hình ảnh đoàn quân xanh màu lá chứ không phải xanh xao, người lính do đó mà như hài hòa cùng với thiên nhiên bao la, ốm nhưng không yếu, ốm mà vẫn vô cùng trẻ trung, vẫn tràn đầy sức sống và sức mạnh .
Đối lập vẻ ngoài tiều tụy là khí phách ngang tàng bên trong, kết hợp từ dữ oai hùm gợi cho người đọc thấy được trên gương mặt xanh xao, gầy ốm của người lính nhưng0 vẫn toát lên vẻ dữ dội, kiêu hùng của những con hổ nơi rừng sâu . Dường như là ở miền đất hoang sơ, bí ẩn đó có bóng hình con hổ rình rập, để dám đe dọa với cọp trêu người thì người lính cũng phải có có sự oai hùm dữ dội, uy nghi để chế ngự và dành chiến thắng.
Những cơn sốt rét rừng ấy không chỉ có trong thơ Quang Dũng mà còn để lại dấu ấn đau thương trong thơ ca kháng chiến trường kì chống Pháp nói chung. Thơ ca thời kỳ kháng chiến khi viết về hình ảnh người lính thường nói đến những căn bệnh sốt rét hiểm nghèo:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
(Đồng chí – Chính Hữu)
Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ
Anh vệ quốc quân ơi
Sao mà yêu anh thế.
(Cá nước – Tố Hữu).
Sau này một nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mỹ cũng đã viết về căn bệnh sốt rét rừng của những người lính bằng những vần thơ tê tái:
Nơi thuốc súng trộn vào áo trận
Cơn sốt rừng đi dọc tuổi thanh xuân.
Họ còn là những chàng trai Hà Nội hào hoa đầy lãng mạn:
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm.
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới là đôi mắt thao thức về quê hương thủ đô Hà Nội, về một dáng lả lướt kiều thơm trong mộng. Mộng và mơ gửi về hai phía ở phía xa chân trời: biên giới hướng về Hà Nội. Người lính Tây Tiến không chỉ biết mỗi cầm súng cầm gươm theo tiếng gọi của non sông mà giữa bao nhiêu gian khổ đó, thiếu thốn ấy thì trái tim họ vẫn rung động, vẫn nhớ nhung về những vẻ đẹp của Hà Nội: đó có thể là phố cũ hoặc trường xưa… hay chính xác hơn là nhớ về hình bóng của những người bạn gái đang ở Hà Nội với dáng vẻ yêu kiều đầy diễm lệ. Câu thơ của nhà thơ Quang Dũng gợi nhắc người đọc tới một câu thơ của Nguyền Đình Thi:
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Nỗi nhớ về người yêu nhớ dáng kiều thơm nào đó thật đời thường và bình dị nhưng cũng thật cao quý. Nó khiến cho hình ảnh người lính trở nên thật chân thực gần gũi hơn với người đọc . Nỗi nhớ ấy trong hành trang của họ như đã tiếp thêm sức mạnh nghị lực để chiến đấu và dành chiến thắng, nó như một điểm tựa cho thêm vững chắc cho những thanh niên học sinh Hà Nội rời ghế nhà trường tham gia chiến trận – những con người ấy lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa.
Trong chặng đường hành quân có biết bao gian khổ đó , thiên nhiên có thể vừa là bạn vừa là đối thủ thử thách cơ thể ý chí nghị lực của người lính. Cùng hoạt động trên địa bàn rừng núi Tây Bắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp vì vậy Tác giả Quang Dũng và Tố Hữu đều nêu lên cái nhìn khái quát chung cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc dành lại tự do… , ta thấy rằng những đoàn quân trong thời kì kháng chiến chống Pháp đều được tái hiện xây dựng lên bởi vẻ đẹp hào hùng, bởi lý tưởng cao đẹp và ý chí kiên cường bất khuất bởi những con người không ngại khó khăn gian nan hiểm nguy và thiếu thốn ở nơi chiến trường đầy khốc nguy hiểm . Cả hai đoạn thơ trên đều mang theo khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn khi tái hiện được lại không khí kháng chiến sục sôi trên các ngả đường đồng thời thể hiện niềm tin vào tương lai tất thắng cuộc kháng chiến của những người lính nói riêng và cả dân tộc Việt Nam nói chung.
Đây là một cuộc chiến tranh sáng ngời chính nghĩa hợp với ý trời thuận với lòng dân. Cho nên lực lượng của ta ngày càng trưởng thành đông đảo và thành lớn mạnh không ngừng. Từ một đội quân trên dưới ba mươi người xuất phát từ cây đa Tân Trào hôm đó mà nay dưới sự chi huy của đồng chí Võ Nguyên Giáp, hôm nay chúng ta đã có một đội quân hùng mạnh thiện chiến liên tiếp gặt hái được những chiến công chói lọi: Thu Đông, Sông Lô, Biên Giới…
Giờ đây tất cả chúng ta đang chuẩn bị tổng phản công bằng một chiến dịch lịch sử. Chúng ta đã hoàn toàn làm chủ được chiến trường Việt Bắc cả về thế lẫn lực. Cho nên đoàn quân ra trận hôm nay đã xuất phát từ mọi ngả đường Việt Bắc như những gọng kìm nhằm bao vây lấy quân giặc đang co cụm lại ở những cứ điểm cuối cùng:
Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Câu thơ thứ hai mở đã ra một bối cảnh rất khác, đó là ngày kháng chiến đánh chống Pháp, máy bay địch chủ yếu hoạt động chính vào ban ngày. Do đó ta phải liên tục hành quân đêm xưa là rừng núi là đêm (Tố Hữu). Trên các nẻo đường ở Việt Bắc đêm nối đêm cứ rầm rập hành quân ra trận. Từ láy rầm rập là một từ tượng thanh rất gợi cảm lôi cuốn . Nó diễn tả toàn bộ những bước chân đi đầy khí thế hăng say và sức mạnh áp đảo của một tập thể người đông đúc có đội ngũ chỉnh tề. Với từ rầm rập đặc sắc ấy cho thấy cuộc ra trận của quân ta bỗng trở thành một cuộc hành quân diễu binh hùng tráng:
Xuân hãy xem cuộc diễn binh hùng vĩ
Ba mươi mốt triệu nhân dân
Tất cả hành quân
Tất cả thành chiến sĩ.
Vì thế mà từng bước chân của đoàn quân ấy đêm đêm như làm rung chuyển cả một vùng đất. Hình ảnh thơ mang đậm mầu sắc của sự hùng tráng. Từ cái nhìn chung và bao quát ở câu một và hai đến đây, tác giả đi sâu vào trong cái nhìn cụ thể. Nếu ở câu trên, tác giả miêu tả khí thế ra trận của quân ta qua ấn tượng của thính giác, thì cho đến các câu sau, tác giả tả bằng chính thị giác: Quân đi điệp điệp trùng trùng. Từ láy điệp điệp trùng trùng thật giàu ý nghĩa để diễn tả. Nó gợi lên trong ta thấy được những đoàn quân ra trận nối dài vô tận và rất hùng vĩ như biết bao dãy núi kế tiếp nhau vậy. Sau này nhà thơ Phạm Tiến Duật cũng đã viết nên:
Từ nơi em gửi tới nơi anh
Những đoàn quân trùng trùng ra trận
Như tình yêu nối trời vô tận
Ở đây ta lại một lần bắt gặp một hình ảnh thơ được viết với bút pháp cường điệu mang đậm màu sắc của anh hùng ca. Vì vậy sức mạnh khí thế tinh thần của đoàn quân ra trận đã được nâng cao ngang tầm với sức mạnh của thiên nhiên sông núi. Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Câu thơ vừa có ý nghĩa tả thực vừa có ý nghĩa khái quát cũng như tượng trưng sâu xa. Trước hết nó diễn tả hình ảnh đoàn quân đi trong đêm, đầu súng lấp lánh cùng với ánh sao trời. Nhưng đó cũng là lấp lánh ánh sao của lý tưởng niềm tin chiến thắng .
Hình ảnh tươi sáng ấy kết hợp đan xen cùng với hình ảnh chiếc mũ nan giản dị trang bị còn thiếu thốn của anh bộ đội, tạo ra cho anh một vẻ đẹp bình dị mà đầy cao cả, bình thường mà vô cùng vĩ đại. Nhà thơ Chính Hữu cùng đã có câu thơ rất hay và nổi tiếng Đầu súng trăng treo.
Hai câu thơ cuối cùng của đoạn thơ cho ta thấy khí được rõ thế khẩn trương của cuộc kháng chiến:
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tiếp theo đoàn dân công là những binh đoàn xe chở vũ khí đạn dược ra chiến trường. Những chiếc xe nối đuôi nhau, đèn pha bật sáng trưng cả một vùng như ánh sáng ban ngày. Chỉ đơn giản bằng một hình ảnh ấy, Tố Hữu đã diễn tả được cái đông đảo và hùng mạnh tràn đầy khí thế của lực lượng cơ giới quân ta. Hai câu thơ chỉ rõ có hai hình ảnh đối lập: Nghìn đêm thăm thẳm sương dày với Đèn pha bật sáng như ngày mai lên đã làm nổi rõ được sự trưởng thành vượt bậc của quân ta và niềm tin tất thắng của những con người cầm súng ra trận. Nếu ở trong đoạn thơ trước, chúng ta phải mai phục , phải nương náu nơi rừng sâu, ẩn nấp trong những con dãy núi thẳm hàng ngàn đêm tăm tối gian khổ thăm thẳm sương dày để có giờ phút bừng sáng quật khởi đầy niềm tin chói lọi này.
Tuy nhiên là , hai đoạn thơ còn thể hiện những nét riêng biệt trong phong cách sáng tác và nét bút của hai tác giả. Quang Dũng không hề né tránh những hiện thực khó khăn thiếu thốn và gian nan của người lính phải trải qua. Không chỉ miêu tả vẻ ngoài mang đậm tráng trí của người lính thời xưa Quang Dũng còn tập trung khắc họa vẻ đẹp tâm hồn bên trong người lính tiềm ẩn nhiều nét mộng mơ hào hoa rất Tây Tiến.
Những người lính hào hoa và phóng khoáng, được tái hiện trong khung cảnh vô cùng khắc nghiệt của thiên nhiên Tây Bắc, trong đói khổ, nằm trên sự thiếu thốn và căn bệnh sốt rét hoành hành mà vẫn hiên ngang, tinh thần bất khuẩt. Trong khi đó thì Tố Hữu chủ yếu ngợi ca sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, hình ảnh người lính hiện ra hết sức giản dị, nhưng vô cùng dũng cảm, hiện ra trong đoàn quân đông đảo và hào hùng.
Nếu Quang Dũng dùng thể thơ thất ngôn với nhiều từ ngữ như là Hán – Việt: đoàn binh, biên giới, kiều thơm… tạo nên không khí hùng tráng phảng phất không khí của thời xưa, giọng thơ cổ điển nhưng cũng rất hiện đại. Còn nhà thơ Tố Hữu sử dụng nhuần nhuyễn thể thơ lục bát truyền thống, bằng nhiều những từ láy tượng thanh, gợi cảm và những ngôn ngữ sử thi hùng tráng, giọng thơ sôi nổi hào hùng mãnh liệt , Tố Hữu đã tái hiện bức tranh tổng kết về cái hông khí sôi động, hào hùng và lớn mạnh của quân và dân ta trong kháng chiến trường kì chống Pháp.
Để có những nét khác biệt ấy là do hoàn cảnh sáng tác và phong cách nghệ thuật qua từng thời điểm khác nhau của hai tác giả. Quang Dũng viết bài thơ Tây Tiến từ trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ. Hồn thơ ông mang đậm nét phóng khoáng, tài hoa cũng không kém phần lãng mạn. Còn nhà Tố Hữu viết Việt Bắc trong thời kì thắng lợi, đã giải phóng miền Bắc, lịch sử cũng đã bước sang trang mới, nên thơ ông cũng mang theo nhiều sự lạc quan và có niềm tin hơn. Bên cạnh đó thì thơ Tố Hữu mang theo phong cách trữ tình chính trị, nên do đó, ông thiên về ngợi ca lòng tin với cách mạng cũng như với chiến thắng dân tộc.
Cả hai tác giả đều có nhiều những trải nghiệm từ thực tế chiến đấu nên thơ đều có chất hiện thực để khắc họa hình tượng người lính trong kháng chiến chống Pháp. Đó là sự bước tiếp nối cùng với hình tượng sĩ phu yêu nước ở trong quá khứ, và là cũng chính hình ảnh mở đầu cho hình tượng chiến sĩ giải phóng quân kiên cường trong cuộc kháng chiến chống Mỹ sau này. Đó là chính những tượng đài bất hủ của lòng yêu nước và tự hào dân tộc của nhân dân đất nước ta . Từ hình tượng người lính nên có thể khắc họa lên hình ảnh một đất nước với nhiều đau thương hy sinh mà đầy anh dũng:
Nước Việt Nam từ trong máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.